Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính: chẩn đoán và điều trị cấp cứu


Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính: chẩn đoán và điều trị cấp cứu

Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là vấn đề cấp tính được đặc trưng bởi sự xấu đi của các triệu chứng hô hấp vượt ra ngoài các biến đổi hàng ngày thông thường và dẫn đến thay đổi thuốc

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh phổ biến, có thể phòng ngừa và có thể điều trị được, được đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp dai dẳng và hạn chế luồng khí là do bất thường đường thở và / hoặc phế nang thường do tiếp xúc đáng kể với các hạt hoặc khí độc hại. Giới hạn luồng khí mãn tính đặc trưng cho COPD là gây ra bởi một hỗn hợp của bệnh đường hô hấp nhỏ (ví dụ viêm phế quản tắc nghẽn) và phá hủy nhu mô (khí phế thũng), sự đóng góp tương đối của mỗi người khác nhau. Viêm mãn tính gây ra thay đổi cấu trúc, hẹp đường thở và phá hủy nhu mô phổi, phế quản nhỏ có thể góp phần hạn chế luồng không khí và rối loạn chức năng niêm mạc, một đặc điểm của bệnh.

Đợt cấp là đợt mất bù cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) gây suy hô hấp. Đặc điểm của đợt cấp là tình trạng khó thở tăng nặng thêm; ho và tăng thể tích đờm và/hoặc đờm mủ và tình trạng này thường đi kèm giảm oxy máu và tình trạng xấu đi của tăng CO2 máu.

Nguyên nhân: hay gặp nhất là nhiễm khuẩn (Haemophilus influenzae, phế cầu, Moraxella catarrhalis). Trong các đợt cấp nặng có thể gặp phế cầu kháng thuốc sinh beta-lactamase. Các nguyên nhân khác: nhiễm virus, mệt cơ hô hấp, nhồi máu phổi.

Chẩn đoán xác định đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Tiền sử của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Khó thở, nhịp thở nhanh > 25 chu kì/phút, có thể có tím khi suy hô hấp nặng.

Ho khạc đờm nhiều, đờm đục (nhiễm khuẩn).

Có thể có sốt kèm các dấu hiệu nhiễm trùng.

Khám phổi: co kéo cơ hô hấp phụ, lồng ngực hình thùng, ran ngáy, ran rít, có thể nghe thấy ran ẩm hoặc ran nổ, rì rào phế nang giảm.

Nhịp tím nhanh, huyết áp tăng (suy hô hấp nặng) hoặc có thể tụt (suy hô hấp nguy kịch).

Có thể có các dấu hiệu của suy tim phải: phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi.

Độ bão hòa oxy mạch (SpO2) có thể < 90%.

Xquang: phổi sáng, cơ hoành hạ thấp, xương sườn nằm ngang, khoang liên sườn giãn rộng, hình phế quản đậm, tim hình giọt nước (hoặc tim to khi có suy tim nặng).

Điện tim: trục phải, dày thất phải, P phế.

Khí máu: pH máu giảm, PaCO2 tăng, có thể kèm theo giảm oxy hóa máu.

Chẩn đoán phân biệt đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Cơn hen phế quản.

Cơn hen tim.

Tràn khí màng phổi ở bệnh nhân COPD.

Chẩn đoán mức độ nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Nặng

Khỏ thở liên tục, tím.

Nói được câu ngắn.

Co kéo cơ hô hấp phụ rõ rệt.

Tần số thở > 30/phút, SpO2 < 90%.

Tần số tim >110 chu kì/phút, huyết áp tăng.

PaO2 < 60mmHg, PaCO2 > 45mmHg, SaO2 < 90%.

Nguy kịch

Rối loạn ý thức (lú lẫn, ngủ gà, thậm chí hôn mê).

Kiệt sức cơ hô hấp: hô hấp nghịch thường, không ho được.

Tụt huyết áp.

PaO2 < 45mmHg, PaCO2 > 70mmHg, pH < 7,30.

Điều trị cấp cứu

Nguyên tắc xử trí

Phát hiện ngay tình trạng suy hô hấp nguy kịch để can thiệp thủ thuật theo trình tự của dây chuyền cấp cứu ABCD, dùng thuốc điều trị, theo dõi và kiểm soát tốt chức năng sống của bệnh nhân.

Điều trị đợt cấp COPD có suy hô hấp trung bình và nặng tại khoa cấp cứu

Tư thế: bệnh nhân ngồi hoặc nằm ngửa tư thế đầu cao.

Đánh giá mức độ nặng, làm khí máu và chụp Xquang phổi.

Thở oxy: dùng oxy với lưu lượng thấp (1-2 lít/phút) hoặc qua mặt nạ venturi FiO2 30-40%. Làm lại khí máu sau 30-60 phút.

Thuốc giãn phế quản:

+ Tăng liều hoặc dùng thường xuyên hơn.

+ Kết hợp thuốc kích thích beta-2 giao cảm (salbutamol hoặc terbutalin 5-10mg/lần) và thuốc ức chế phó giao cảm (ipratropium 0,5-1 mg/lần) khí dung, nhắc lại nếu cần thiết.

+ Cân nhắc dùng thêm thuốc nhóm methylxanthin nếu cần.

Corticoid: 30-40mg prednisolon/ngày (hoặc corticold khác với liều tương đương) trong 7-10 ngày, dùng đường tiêm tĩnh mạch hoặc đường uống.

Kháng sinh: chỉ định khi bệnh nhân có sốt hoặc đờm đục hoặc có bạch cầu đa nhân trung tính tăng.

Dùng kháng sinh nhóm beta-lactam chống được vi khuẩn sinh beta-lactamase hoặc cephalosporin thế hệ 2, 3. Lựa chọn kháng sinh thứ hai là fluoroquinolone. Có thể dùng đường uống hoặc tiêm truyền.

Cân nhắc chỉ định thông khí nhân tạo không xâm nhập khi:

+ Tình trạng khó thở xấu đi: thở gắng sức + tần số thở > 30 chu kì/phút.

+ Toan hô hấp cấp (pH < 7,25-7,30).

+ Tinh trạng oxy hoá máu tồi đi (tỉ lệ PaO2/FiO2 < 200).

Theo dõi:

+ Theo dõi cân bằng dịch và tình trạng dinh dưỡng.

+ Cân nhắc heparine trọng lượng phân tử thấp đường dưới da.

Xác định và điều trị các bệnh kèm theo (suy tim, loạn nhịp tim, nhồi máu phổi).

Theo dõi sát tình trạng của bệnh nhân.

Chì định chuyển Hồi sức tích cực:

+ Tinh trạng khó thở nặng không đáp ứng với điều trị trên.

Rối loạn ý thức.

Thiếu oxy máu không cải thiện hoặc tiếp tục xấu đi: PaO2 < 40mmHg; toan hô hấp nặng hoặc xấu đi, pH < 7,25 mặc dù đã cho đủ oxy và thông khí đủ.

Cần thông khí xâm nhập kéo dài.

Rối loạn huyết động cần dùng vận mạch.

Điều trị đợt cấp COPD có suy hô hấp nguy kịch

Thông khí nhân tạo: thường cần phải tiến hành thông khí nhân tạo xâm nhập ngay.

Thuốc giãn phế quản nên cho theo đường tĩnh mạch với liều cao.

Kháng sinh đường tiêm.

Nếu có tụt huyết áp hay có suy tim nặng: dobutamin, có thể phối hợp với dopamin.

Cân nhắc vận chuyển khoa hồi sức tích cực điều trị.

Series bài viết: Phác đồ điều trị nội khoa

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận