[Da liễu] Chữa Bệnh Chàm (Eczema)


Bệnh chàm là một bệnh da dị ứng xuất hiện do phản ứng viêm của biểu bì ở những người có cơ địa đặc biệt dễ nhạy cảm với những dị nguyên ở ngoài hoặc ở trong cơ thể. Cơ địa có thể có tính chất gia đình, di truyền.


I. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG BỆNH CHÀM


Triệu chứng chính là các mụn nước tập trung thành từng đám trên nền da đỏ do bị viêm. Các mụn nước vỡ ra rất nhanh và chảy nước vàng, Nước vàng khô đọng lại thành vẩy tiết màu vàng, vẩy tiết bong đi và tiếp sau đó là các vẩy da, cũng sẽ bong dần rồi da trở lại bình thường. Bệnh chàm phát thành từng đợt không đều nhau, bao giờ cũng kèm theo triệu chứng ngứa và hay tái phát. Ngứa nhiều hoặc ít còn phụ thuộc vào từng cá nhân. Thường ngứa nhiều ở giai đoạn đầu của đợt phát bệnh và tăng lên sau đợt phát bệnh mới.

Bệnh chàm tiến triển qua 3 giai đoạn

– Giai đoạn cấp tính: mụn nước xuất hiện chi chít trên nền da đỏ, phù. Sau đó, mụn nước vỡ ra chảy rất nhiều nước vàng.

– Giai đoạn bán cấp: ở giai đoạn này da hết phù, bớt đỏ, còn chảy ít nước.

– Giai đoạn mạn tính: bệnh chàm cấp tính tiến triển dai dẳng độ 2 tháng không khỏi sẽ trở thành mạn tính. Lúc đầu trên nền da đỏ xuất hiện nhiều vẩy da, thỉnh thoảng có rỉ nước vàng. Nếu bệnh dai dẳng một thời gian dài hơn, ngứa gãi nhiều, da dày lên, nếp da sâu xuống thành da kẻ ô tức hằn cổ trâu (lichen – hoá).


II. CÁC THỂ LÂM SÀNG BỆNH CHÀM


Phân biệt 4 thể lâm sàng chủ yếu sau

1. Chàm thể tạng

– Chàm thể tạng trẻ em: xuất hiện ở trẻ đang bú, bắt đầu từ tháng thứ hai hoặc thứ ba có trường hợp ngay từ tháng đầu. Mụn nước sắp xếp thành từng đám ở hai bên má, trán, trừ mũi, miệng và cằm, thành hình bán nguyệt giống như vành móng ngựa, giới hạn không rõ rệt. Ngứa có thể rất dữ dội làm cho trẻ quấy khóc không ngủ được. Bệnh tiến triển từng đợt và có khuynh hướng lan rộng.

– Chàm thể tạng người lớn: một số trường hợp bệnh chàm thể tạng trẻ em dai dẳng về sau phát ra ở người lớn. Cũng có trường hợp bệnh chàm thể tạng người lớn xuất hiện muộn. Bệnh có tính chất gia đình và di truyền. Vị trí khu trú có thể lúc đầu ở mặt, sau lan ra cổ, thân mình và các chi, nhất là ở các kẽ khớp lớn (kheo chân), thương tổn xuất hiện thành mảng da dày, lichen – hoá, trong đợt vượng bệnh trên bề mặt và bờ các đám thương tổn thấy có các mụn nước rải rác,..

2. Chàm vi khuẩn

Xuất hiện ở xung quanh một vết thương nhiễm khuẩn, vết bỏng, vết loét da do giãn tĩnh mạch, không được điều trị. Đặc điểm về lâm sàng là bờ của dám thương tổn rất rõ, hình dạng tròn hoặc bầu dục. Trên bề mặt của đám thương tổn có vẩy tiết, cạy vẩy thấy một lớp da đỏ ướt, có những mụn nước tiết dịch. Vị trí khu trú thường chỉ ở một bên, không đối xứng.

3. Chàm da mỡ

Bệnh phát ra ở vùng da có tăng tiết chất bã: vùng trước ngực, sau lưng (giữa 2 xương bả vai) rãnh mũi – má lông mày và da đầu. Khởi đầu là những dát đỏ ở nang lông, trên có các vẩy tiết màu vàng. Các thương tổn liên kết với nhau thành mảng kích thước không đều và có ranh giới rõ rệt, cạy vẩy thấy rỉ nước trên toàn bộ thương tổn.

4. Chàm tiếp xúc

Do tác dụng kích thích của các chất tiếp xúc trong nghề nghiệp hoặc trong sinh hoạt. Vị trí khu trú ở vùng da hở tương ứng với chất tiếp xúc gây bệnh. Triệu chứng lâm sàng là những mụn nước liên kết với nhau thành đám. Các mụn nước vỡ ra chảy nước vàng đóng vẩy tiết qua các giai đoạn tiến triển như trong bệnh chàm bình thường nhưng ít có tính chất đa dạng hơn.


III. GIẢI PHẪU BỆNH LÝ BỆNH CHÀM


Ở giai đoạn cấp tính: có những ổ xốp bào ở lớp tế bào gai dẫn đến hình thành nhiều khoảng trống chứa chất dịch, các tế bào lym- pho và một số tế bào đa nhân trung tính. Ở trung bì, các mạch máu giãn rộng xung quanh có thâm nhiễm gồm tế bào lympho, một số thực bào. Trường hợp chàm mạn tính, dày lớp gai, ở lớp sừng có hiện tượng á sừng rõ, ở trung bì có thâm nhiễm tế bào. Các tổ chức liên kết phù.


IV. ĐIỀU TRỊ BỆNH CHÀM


Điều trị bệnh chàm phụ thuộc vào từng bệnh nhân, căn cứ vào tuổi, giới và toàn trạng. Điều trị cơ bản nhất là tìm được căn nguyên gây bệnh, loại trừ hoặc làm giảm bớt tác hại của yếu tố gây bệnh từ môi trường bên ngoài hoặc từ bên trong cơ thể do rối loạn chức năng nội tạng.

1. Điều trị tại chỗ

– Trường hợp cấp tính và bán cấp tính, sử dụng các loại thuốc chống viêm, hút nước và giảm ngứa dưới dạng dung dịch, đắp gạc như dung dịch nitrat bạc 0,25%, dung dịch (tanin) 1%, dung dịch kẽm sulfat và đồng sulfat 0,1%, dung dịch Jar- ish gồm có acid boric 10g, glycerin 20g, nước cất 1000ml, Sau khi dịu bệnh dùng thuốc hồ hoặc thuốc mỡ ichtyol 1 – 2%, naptalen 5 – 10%, goudron 5 – 10%, hoặc các loại thuốc bôi corticoid như sicorten, Flucinar, triamcinolon 1- 2%.

– Chiếu tia cực tím từng vùng, tăng dần đến tối đa 3 – 5 liều sinh vật.

2. Điều trị toàn thân

– Các thuốc giải cảm không đặc hiệu như sau: natri hyposulfit, calci cholorua, dung dịch 10% tiêm tĩnh mạch mỗi ngày 5 – 10ml.

– Các loại thuốc an thần chống ngứa, dung dịch natribromua 2 – 3%, mỗi ngày uống 2-3 lần mỗi lần 5ml, Dung dịch novocain 1% tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da hoặc uống (5 – 10ml) hoặc các loại thuốc ngủ (Seduxen, meprobamat, v.v…)

– Các loại kháng histamin tổng hợp như Phenergan, Dimedrol, prometazin, diosolin V.V.. liều lượng 0,05 – 0,1g mỗi ngày chia làm 2 – 3 lần (uống sau bữa ăn), có thể dùng các loạt không gây buồn ngủ như: Histalong, clarityn uống ngày 1 viên 10mg, uống lúc đói.

– Các loại sinh tố như sinh tố C, sinh tố PP, B2, B6.

– Các loại corticoid như prednisolon, triaincinolon chỉ dùng ngắn ngày trong trường hợp bệnh nặng mà các loại thuốc thông thường không có kết quả.

– Chế độ ăn uống: hạn chế nước, muối, chất kích thích.

– Thay đổi khí hậu

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận